Thông Tin Thị Trường
THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA THẾ GIỚI NGÀY 03/08/2018
Ngày đăng: 03/08/2018 | Lượt xem: 954
Hàng hóa TG sáng 3/8/2018: Giá hầu hết giảm
Phiên 2/8 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 3/8 giờ VN), giá dầu tăng nhưng hầ hết các mặt hàng chủ chốt khác tiếp tục giảm.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng mạnh sau những dấu hiệu cho thấy dự trữ dầu thô của Mỹ sẽ giảm sau khi bất ngờ tăng vào cuối tuần qua, mặc dù vẫn quan ngại về căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 9/2018 tăng 1,30 USD (hay 1,9%), lên 68,96 USD/thùng; dầu Brent giao tháng 10/2018 cũng tăng 1,06 USD (hay 1,5%), lên 73,45 USD/thùng.
Nhà cung cấp thông tin trong ngành Genscape thông báo rằng các kho dự trữ dầu thô tại Cushing, trung tâm giao nhận dầu thô lớn nhất tại Mỹ, giảm 1,1 triệu thùng kể ngày 27/7.
Phiên trước đó, giá dầu thô thế giới đã giảm sau khi Chính phủ Mỹ thông báo tổng dự trữ dầu thô của nước này trong tuần trước tăng 3,8 triệu thùng, trong khi kho dự trữ dầu thô tại Cushing giảm 1,3 triệu thùng.
Các nước sản xuất dầu hàng đầu thế giới, trong đó có Saudi Arabia, Nga, Kuwait và Các Tiểu vương quốc Arập thống nhất (UAE), đã quyết định tăng sản lượng khai thác nhằm bù đắp cho nguồn cung thiếu hụt từ Iran một khi lệnh trừng phạt nước này của Mỹ có hiệu lực.
Theo thỏa thuận ban đầu được ký kết trước đó giữa các quốc gia thuộc Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước sản xuất dầu bên ngoài OPEC, Nga nhất trí cắt giảm 300.000 thùng/ngày từ mức sản lượng 11,247 triệu thùng dầu/ngày mà Nga đạt được trong tháng 10/2016. Sau đó khi giá dầu tăng, trong cuộc họp ngày 22/6/2018, các nhà sản xuất dầu trong và ngoài OPEC đã quyết định tăng tổng sản lượng của họ 1 thêm triệu thùng/ngày.
Bộ Năng lượng Nga ngày 2/8 công bố số liệu cho thấy sản lượng khai thác dầu trong tháng 7/2018 của nước này tăng thêm 150.000 thùng/ ngày so với tháng 6/2018. Theo thỏa thuận, Moskva nhất trí cắt giảm 300.000 thùng/ngày từ mức sản lượng 11,247 triệu thùng dầu/ngày mà Nga đạt được trong tháng 10/2016
Tuy nhiên, thị trường vẫn lo ngại căng thẳng thương mại trên toàn cầu sẽ làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như nhu cầu năng lượng. “Gần như chắc chắn Trung Quốc sẽ áp thuế bổ sung lên dầu thô và các sản phẩm dầu nhập khẩu từ Mỹ nếu chính quyền của ông Trump tăng thuế lên hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Điều đó sẽ làm giảm sức cạnh tranh của dầu và các sản phẩm dầu Mỹ tại thị trường Trung Quốc,” nhà phân tích năng lượng cấp cao của Interfax Energy, Abhishek Kumar, cho biết.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất trong hơn một năm trong bối cảnh đồng USD tăng lên. Vàng giao ngay có thời điểm rơi xuống 1.210,80 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ tháng 7/2017, vàng giao tháng 12/2018 giảm 0,6% xuống đóng phiên ở mức 1.220,10 USD/ounce.
Phiên này, đồng USD đã tăng gần 0,5% so với rổ tiền tệ. Sự mạnh lên của đồng bạc xanh khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với những nhà đầu tư nắm giữ đồng tiền khác. Giá vàng đã giảm 11% kể từ tháng 4/2018, trước tiến trình nâng lãi suất tại Mỹ và sự tăng giá của đồng USD do lập luận cho rằng tranh chấp thương mại sẽ gây thiệt hại cho Mỹ ít hơn các quốc gia khác.
Các nhà phân tích của ScotiaMocatta dự báo giá vàng sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới. Trước đồn đoán Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ nâng lãi suất vào tháng 9/2018, nhà phân tích Bernard Dahdah, thuộc Natixis giá vàng có thể giảm xuống dưới 1.200 USD/ounce trước khi Fed công bố quyết định lãi suất vào tháng Chín tới. Tuy nhiên, ông cũng cho rằng chính sách thắt chặt tiền tệ ở những nơi khác có thể khiến USD giảm và giúp giá vàng hồi phục lên trên 1.300 USD/ounce vào năm tới (Ngân hàng Anh đã nâng lãi suất, trong khi Ngân hàng Trung ương châu Âu cũng dự định cắt giảm kích thích kinh tế).
Đối với các kim loại quý khác, giá bạch kim tăng 1,3% lên 822,24 USD/ounce và giá palađi tăng 0,3% lên 916,80 USD/ounce sau khi mỏ Impala Platinum thông báo giảm khoảng 1/3 số công nhân. Bạc cũng tăng 0,03% lên 15,35 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng xuống mức thấp nhất 2 tuần do căng thẳng Mỹ - Trung. Đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,5% xuống 6.139,5 USD/ounce, đầu phiên có lúc chỉ 6.066 USD, thấp nhất 2 tuần. Tháng trước giá đã giảm mạnh nhất kể từ tháng 12/2016.
Trong số những kim loại cơ bản khác, giá nhôm giảm 0,8% xuống 2.036 USD/tấn, kẽm tăng 0,3% lên 2.563 USD/tấn, chì giảm 0,5% xuống 2.115 USD/tấn, thiếc giảm 1,1% xuống 19.605 USD/tấn trong khi nickel giảm 2% xuống 13.120 USD/tấn.
Giá sắt và thép tại Trung Quốccũng đồng loạt giảm trong phiên vừa qua do Mỹ kế hoạch tăng thuế lên 25% đối với 200 tỷ USD hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc.
Quặng sắt giao ngay tại Tần Hoàng Đảo (Trung Quốc) giảm 2,4% xuống 66,55 CNYtấn.
Thép cây kỳ hạn giao tháng 10/2018 tại Thượng Hải giảm 1,2% xuống 4.136 CNY (607 USD)/tấn. Phiên liền trước, giá thép cây đã lập kỷ lục cao nhất 5,5 năm là 5.243 CNY/tấn.
Đối với nông sản, Giá cà phê arabica giao tháng 9/2018 giảm 1,35 US cent tương đương 1,25% xuống 1,067 USD/lb vào lúc đóng cửa, trước đó có lúc chạm 1,06 USD, thấp nhất kể từ 19/7/2018 do đồng real Brazil tiếp tục yếu đi. Robusta giao cùng kỳ hạn cũng giảm 6 USD tương đương 0,36% xuống 1.644 USD/tấn.
Tại châu Á, giá cà phê robusta loại 2 (5% đen và vỡ) thấp hơn 80-110 USD/tấn so với hợp đồng giao tháng 11/2018 tại London, so với mức trừ lùi 105 USD/tấn (so với kỳ hạn giao tháng 9/2018) cách đây một tuần. Cà phê Indonesia giá cao hơn 50 USD/tấn so với hợp đồng giao tháng 11/2018 tại London.
Xuất khẩu cà phê Việt Nam tháng 8/2018 dự báo giảm so với tháng trước do nhu cầu thấp. Các thương gia dự đoán xuất khẩu trong tháng này sẽ ở mức 100.000 – 120.000 tấn, so với 130.000 tấn của tháng 7/2018. Theo các thương gia, sản lượng năm 2018/19 của Việt Nam dự báo tăng 4% so với năm hiện tại, lên 1,85 triệu tấn (30,8 triệu bao), cao hơn mức 29,9 triệu bao USDA đưa ra. Sản lượng cà phê Indonesia năm nay dự báo giảm 40% do thời tiết xấu.
Giá đường thô biến động mạnh trong phiên vừa qua. Trong ngày có lúc giá xuống 10,37 US cent/lb, thấp nhất trong vòng 3 năm đối với hợp đồng ở vị trí này, trước khi hồi phục lên 10,59 US cent/lb vào cuối phiên (tăng 0,11 US cent tương đương 1,05% so với phiên trước). Đường trắng giao cùng kỳ hạn tăng 3,8 USD tương đương 1,21% lên 318,30 USD/tấn.
Các thương gia và nhà phân tích dự đoán giá đường thế giới sẽ hồi phục nhẹ trong những tháng tới, nhưng tính chung cả năm nay vẫn giảm mạnh so với năm ngoái, vì nguồn cung nhiều hơn dự kiến dẫn tới dư thừa. Ấn Độ có thể sẽ xuất khẩu khối lượng dư thừa đúng thời điểm mà bất cứ lượng xuất khẩu nào ra thế giới cũng sẽ gây giảm giá trong những tháng còn lại của năm nay. Sản lượng đường nước này dự báo sẽ đạt 32,1 triệu tấn trong niên vụ 2017/18, và 33,8 triệu tấn trong vụ 2018/19.
Giá lúa mì Mỹ đã tăng lên mức cao nhất 3 năm do lo ngại nguồn cung giảm trên toàn cầu và xuất khẩu từ những nhà cung cấp chính sụt giảm, song về cuối phiên giá hồi phục nhẹ sau khi Ucraina – nhà xuất khẩu lúa mì lớn – bác bỏ thông tin cho rằng họ sẽ cấm xuất khẩu.
Lúa mì đỏ mềm kỳ hạn giao tháng 9/2018 tại Chicago tăng 2-1/4 US cent lên 5,60-1/2 USD/bushel vào cuối ngày, trước đó có lúc đạt 5,93 USD, cao nhất kể từ 2/7/2015.
Cao su tiếp tục giảm giá do lo ngại căng thẳng giữa Mỹ - Trung tăng lên. Hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2019 trên sàn Tokyo giảm 0,9 JPY (0,0081 USD) xuống 169 JPY/kg.Tại Thượng Hải, hợp đồng giao tháng 9/2018 giảm 50 CNY (7,33 USD) xuống 10.235 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa |
ĐVT |
Giá |
+/- |
+/- (%) |
Dầu thô WTI |
USD/thùng |
68,96 |
+1,3 USD |
+1,9% |
Dầu Brent |
USD/thùng |
73,45 |
+1,06 |
+1,46% |
Dầu thô TOCOM |
JPY/kl |
49.350,00 |
+470,00 |
+0,96% |
Khí thiên nhiên |
USD/mBtu |
2,82 |
+0,00 |
+0,07% |
Xăng RBOB FUT |
US cent/gallon |
206,42 |
-0,39 |
-0,19% |
Dầu đốt |
US cent/gallon |
212,68 |
-0,50 |
-0,23% |
Dầu khí |
USD/tấn |
647,75 |
+7,25 |
+1,13% |
Dầu lửa TOCOM |
JPY/kl |
67.200,00 |
+130,00 |
+0,19% |
Vàng New York |
USD/ounce |
1.217,80 |
-2,30 |
-0,19% |
Vàng TOCOM |
JPY/g |
4.331,00 |
-36,00 |
-0,82% |
Bạc New York |
USD/ounce |
15,34 |
-0,05 |
-0,32% |
Bạc TOCOM |
JPY/g |
55,20 |
-0,30 |
-0,54% |
Bạch kim giao ngay |
USD/ounce |
824,65 |
+0,88 |
+0,11% |
Palladium giao ngay |
USD/ounce |
917,89 |
+1,61 |
+0,18% |
Đồng New York |
US cent/lb |
273,20 |
-0,55 |
-0,20% |
Đồng LME 3 tháng |
USD/tấn |
6.139,50 |
-32,50 |
-0,53% |
Nhôm LME 3 tháng |
USD/tấn |
2.036,00 |
-16,00 |
-0,78% |
Kẽm LME 3 tháng |
USD/tấn |
2.563,00 |
+8,00 |
+0,31% |
Thiếc LME 3 tháng |
USD/tấn |
19.605,00 |
-220,00 |
-1,11% |
Ngô |
US cent/bushel |
381,25 |
+1,75 |
+0,46% |
Lúa mì CBOT |
US cent/bushel |
560,50 |
+2,25 |
+0,40% |
Lúa mạch |
US cent/bushel |
250,75 |
+2,50 |
+1,01% |
Gạo thô |
USD/cwt |
11,63 |
-0,24 |
-2,06% |
Đậu tương |
US cent/bushel |
897,50 |
-4,25 |
-0,47% |
Khô đậu tương |
USD/tấn |
332,60 |
-3,40 |
-1,01% |
Dầu đậu tương |
US cent/lb |
28,61 |
-0,34 |
-1,17% |
Hạt cải WCE |
CAD/tấn |
2.138,00 |
+9,00 |
+0,42% |
Cacao Mỹ |
USD/tấn |
106,70 |
-1,35 |
-1,25% |
Cà phê Mỹ |
US cent/lb |
10,59 |
+0,11 |
+1,05% |
Đường thô |
US cent/lb |
167,75 |
-1,40 |
-0,83% |
Nước cam cô đặc đông lạnh |
US cent/lb |
88,83 |
+0,49 |
+0,55% |
Bông |
US cent/lb |
-- |
-- |
-- |
Lông cừu (SFE) |
US cent/kg |
425,40 |
-15,00 |
-3,41% |
Gỗ xẻ |
USD/1000 board feet |
169,20 |
+0,20 |
+0,12% |
Cao su TOCOM |
JPY/kg |
1,44 |
0,00 |
0,00% |
Ethanol CME |
USD/gallon |
2.138,00 |
+9,00 |
+0,42% |
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg
Tin nổi bật
-
THỊ TRƯỜNG CHĂN NUÔI NGÀY 19/04/2020
19/04/2021
-
THỊ TRƯỜNG CHĂN NUÔI NGÀY 14/04/2021
14/04/2021
-
THỊ TRƯỜNG CHĂN NUÔI NGÀY 13/04/2021
13/04/2021
-
THỊ TRƯỜNG CHĂN NUÔI NGÀY 07/04/2021
07/04/2021