• Địa chỉ liên hệ
  • 783 Nguyễn Bỉnh Khiêm, P. Đông Hải 1, Q.Hải An, TP. Hải Phòng
ẢNh đại diện

Thông Tin Thị Trường

Thông Tin Thị Trường

THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA THẾ GIỚI NGÀY 07/08/2018

Ngày đăng: 07/08/2018 | Lượt xem: 876

Hàng hóa TG sáng 7/8/2018: Giá dầu và cà phê tăng, vàng giảm

Hàng hóa TG sáng 7/8/2018: Giá dầu và cà phê tăng, vàng giảm

Phiên giao dịch 6/8 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 7/8 giờ VN), giá dầu tăng trong khi kim loại giảm.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng mạnh sau khi Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) cho biết sản lượng khai thác của khối này bất ngờ giảm trong tháng 7/2018, làm dấy lên các lo ngại về nguồn cung dầu toàn cầu giữa bối cảnh Mỹ đang chuẩn bị áp đặt trở lại các biện pháp trừng phạt đối với Iran - nước xuất khẩu dầu lớn đồng thời là thành viên của

Kết thúc phiên, dầu Brent Biển Bắc giao kỳ hạn tăng 54 US cent lên 73,75 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ tăng 52 US cent lên 69,01 USD/thùng.

Nhà phân tích thị trường năng lượng Steward Glickman thuộc CFRA Research nhận định, giá dầu đã giảm trong những phiên gần đây với giả thiết Saudi Arabia sẽ tiếp tục sản xuất thêm nhiều dầu mỏ. Giá dầu Brent trong tháng 7/2018 giảm 6,5%. Tuy nhiên, số liệu mới dây cho thấy Saudi Arabia bơm khoảng 10,29 triệu thùng dầu/ngày vào thị trường trong tháng Bảy vừa qua, giảm khoảng 200.000 thùng/ngày so với tháng trước đó.

Dự báo Washington ngày 7/8 sẽ thông báo việc tái áp đặt lệnh trừng phạt Iran mà nước này đã trì hoãn sau khi thỏa thuận hạt nhân Iran (Kế hoạch Hành Động Chung Toàn diện (JCPOA), được các cường quốc ký với Tehran vào tháng 7/2015, theo đó Tehran hạn chế các hoạt động làm giàu urani để đổi lấy việc dỡ bỏ các lệnh trừng phạt quốc tế. Mỹ còn lên kế hoạch tái áp đặt các lệnh trừng phạt vào dầu của Iran vào tháng 11 tới, qua đó có thể làm giảm sản lượng khai thác dầu của nước này. Phần lớn “vàng đen” của Iran được xuất khẩu sang Trung Quốc và Ấn Độ, song khoảng 20% lượng này được đưa đến châu Âu, nơi các nhà lọc dầu gần đây đã giảm lượng mua vào.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do USD mạnh lên khi đồn đoán Mỹ sẽ tiếp tục tăng lãi suất. Vàng giao tháng 12/2018 giảm 5,5 USD (0,5%) xuống 1.217,70 USD/ounce; vàng giao sau giảm 5,5 USD tương đương 0,5% xuống 1.217,7 USD/ounce.

Cuối tuần trước, một quan chức Fed đã tái khẳng định tiến trình nâng lãi suất của ngân hàng này. Theo các chuyên gia, giá vàng luôn tỏ ra “nhạy cảm” với các đợt nâng lãi suất tại Mỹ.

Thêm vào đó, giá kim loại quý này còn chịu sức ép trước đà tăng của đồng USD so với rổ tiền tệ. Đồng bạc xanh đang hướng đến tuần tăng thứ hai liên tiếp, giữa bối cảnh các nhà đầu tư dự đoán rằng căng thẳng thương mại giữa các nền kinh tế lớn và đà phục hồi mạnh mẽ của kinh tế Mỹ sẽ tiếp tục đẩy đồng USD tăng giá.

Trong bối cảnh căng thẳng trong quan hệ thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc leo thang, các nhà quan sát cho biết giới đầu tư cũng tăng cường mua vào đồng USD như một tài sản an toàn thay vì vàng.

Chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ tăng cường áp đặt các lệnh trừng phạt đối với Iran trong tuần này, trong đó có các mặt hàng như kim loại quý, thép, than đá.

Giám đốc điều hành RBC Wealth Management, George Gero, nhận định người dân Iran đang tăng cường mua vàng để hỗ trợ đồng nội tệ. Tuy nhiên, nhu cầu mua vào vàng tại Iran không thể bù đắp lượng bán ra tại các nước phương Tây, do đồng USD tăng giá và lãi suất tại Mỹ đang tăng dần.

Đối với những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,3% xuống còn 15,33 USD/ounce, palađi giảm 0,02% xuống còn 909,3 USD/ounce, trong phiên có lúc xuống 900,25 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 23/7; bạch kim giảm 0,3% xuống còn 824,4 USD/ounce.

Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do lo ngại về tổn hại tăng trưởng kinh tế toàn cầu từ tranh chấp thương mại giữa Mỹ và các đối tác thương mại, bên cạnh đồng USD mạnh lên. Giá đồng tham chiếu trên sàn kim loại London giảm 1,2% xuống còn 6.133 USD/tấn. Đồng đã giảm hơn 15% kể từ khi đạt mức cao nhất 4 năm rưỡi 7.348 USD/tấn trong tháng 6/2018.

Trung Quốc áp thuế 5% đến 25% đối với 5.207 mặt hàng nhập khẩu từ Mỹ, các mặt hàng có mức thuế quan 25% bao gồm quặng đồng và đồng tinh luyện, số lượng không đáng kể đối với Trung Quốc. Trong năm 2017 Mỹ xuất khẩu gần 433.000 tấn đồng tinh luyện sang Trung Quốc, chỉ chiếm khoảng 3% trong tổng nhập khẩu. Trung Quốc là nước tiêu thụ kim loại công nghiệp lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 1/2 nhu cầu toàn cầu.

Số liệu cho thấy, dự trữ đồng tại kho ngoại quan LME hiện đạt 250.625 tấn, và giảm hơn 35% kể từ cuối tháng 3/2018. Dự trữ đồng tại Trung Quốc đạt 192.817 tấn, giảm gần 40% kể từ đầu tháng 4/2018, cho thấy nhu cầu đồng tại Trung Quốc tăng mạnh.

Đối với các kim loại cơ bản khác, giá nhôm tăng 0,7% lên 2.043 USD/tấn, kẽm giảm 2,4% xuống còn 2.569 USD/tấn, chì không thay đổi ở mức 2.115 USD/tấn, thiếc giảm 0,4% xuống còn 19.525 USD/tấn và nickel tăng 1% lên 13.685 USD/tấn.

Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 3/2018 sau khi nước này dọa trả đũa đối với hàng hóa của Mỹ có trị giá 60 tỉ USD. Quặng sắt giao kỳ hạn tháng 9 tại Sở giao dịch hàng hóa Đại Liên tăng 6,5% lên 512,5 NDT (75 USD)/tấn, mức cao nhất kể từ ngày 9/3/2018. Phiên trước đó giá cũng đã tăng 4,5% lên 502,5 NDT/tấn.

Thanh cốt thép kỳ hạn tháng 10 tại Thượng Hải tăng 1,3% lên 4.224 NDT/tấn, gần mức cao nhất 5 năm rưỡi đạt được trong ngày 1/8/2018.

Tỉnh Sơn Đông Trung Quốc mới đây đã công bố kế hoạch cắt giảm công suất sản xuất thép nhằm nỗ lực chống ô nhiễm môi trường. Ngoài các thành phố và các tỉnh đã hạn chế sản xuất trước mùa đông, Trung Quốc cũng đang có kế hoạch áp đặt hạn chế sản xuất công nghiệp trong mùa đông năm thứ 2 liên tiếp, từ ngày 1/10/2018 đến 31/3/2019. Công suất sử dụng tại các nhà máy thép lò cao Trung Quốc giảm xuống còn 66,99%, mức thấp nhất kể từ ngày 13/4/2018, công ty tư vấn Mysteel cho biết.

Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica giao tháng 9/2018 tăng 1 US cent tương đương 0,9% lên 1,0875 USD/lb, robusta giao cùng kỳ hạn tăng 20 USD tương đương 1,2% lên 1.682 USD/tấn. Giá tăng bởi hoạt động mua bù, song dù vậy giá vẫn thấp hơn chi phí sản xuất ở nhiều nước cung cấp.

Đường thô kỳ hạn tháng 10 tăng 0,13 cent tương đương 1,2% lên 10,98 cent/lb, trong phiên có lúc đạt 11,13 cent/lb. Phiên trước đó, giá đường tăng mạnh được thúc đẩy bởi đồng real Brazil tăng mạnh và làn sóng mua bù thiếu của các nhà đầu tư, do giá chạm mức thấp nhất 3 năm trong tuần trước đó. Đường trắng giao cùng kỳ hạn tăng 3 USD tương đương 0,9% lên 327,3 USD/tấn.Các nhà phân tích cho biết, giá đường còn được hỗ trợ bởi lo ngại về ảnh hưởng hạn hán tại khu vực EU, cùng với thời tiết khô kéo dài tại khu vực trung nam Brazil.

Giá ca cao tăng sau khi giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 5 tháng, được hậu thuẫn bởi hoạt động mua vào sau khi giá giảm. Ca cao kỳ hạn tháng 12 trên sàn New York tăng 56 USD tương đương 2,6% lên 2.170 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 2.100 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ giữa tháng 2/2018. Hợp đồng ca cao kỳ hạn tháng 12 trên sàn London tăng 38 GBP, tương đương 2,4% lên 1.625 GBP/tấn, trong phiên có lúc đạt 1.577 GBP/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 1/3/2018.

Đối với ngũ cốc giá lúa mì tăng hơn 3% và đóng cửa đạt mức cao nhất trong 3 năm, do lo ngại nguồn cung toàn cầu thắt chặt, khi thời tiết xấu ảnh hưởng đến triển vọng vụ thu hoạch của các nước sản xuất trọng điểm trên toàn cầu. Lúa mì mềm, cứng vụ đông kỳ hạn tháng 9/2018trên sàn Chicago tăng 18-1/4 cent tương đương 3,3% lên 5,74-1/2 USD/bushel, mức cao nhất kể từ ngày 14/7/2015. Hợp đồng lúa mì đỏ cứng vụ đông kỳ hạn tháng 9 tăng 18-3/4 cent, tương đương 3,3% lên 5,86 USD/bushel.

Giá cao tại Tokyo tăng lên mức cao nhất 2 tuần theo xu hướng tại Thượng Hải bất chấp lo ngại về căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc. Cao su kỳ hạn giao tháng 1/2018 trên sàn TOCOM kết thúc phiên tăng 2,2 JPY tương đương 1,3% lên 170,5 JPY (1,53 USD)/kg, trong phiên có lúc đạt 171,2 JPY/kg, mức cao nhất kể từ ngày 23/7/2018.

Tại Thượng Hải hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 1 tăng 235 NDT lên 12.150 NDT (1.775 USD)/tấn.

Giá hạt tiêu tiếp tục giảm. Tại Tây Nguyên nói chung và Đắc Lắk nói riêng, giá tiêu đen hiện chỉ còn 48.000 đến 49.000 đồng/kg, từ mức 4.000 đến 5.000 đồng/kg cuối tháng 7/2018. Ở mức này, giá đã mất 151.000 đến 152.000 đồng/kg so với năm 2015. Đây cũng là giá tiêu giảm thấp nhất trong hơn 10 năm qua ở khu vực Tây Nguyên.

Theo các đơn vị chức năng, với giá tiêu như hiện nay, các nông hộ sản xuất tiêu ở Tây Nguyên không còn có lãi, thậm chí lỗ nặng, vì qua tính toán giá thành sản xuất 1 kg tiêu đen ở khu vực Tây Nguyên đã tăng lên từ 45.000 đến 47.000 đồng do đầu vào tăng từ công chăm sóc, tưới nước, bón phân, thuốc trừ sâu đến công thu hoạch…

Dự báo, từ nay đến cuối năm, giá tiêu đen ở các tỉnh Tây Nguyên vẫn còn nhiều biến động, tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, bất lợi cho người sản xuất. Hiện nay, các tỉnh Tây Nguyên đã có trên 85.249 ha; trong đó, Đắk Lắk là địa phương có diện tích tiêu nhiều nhất với 42.562 ha (trong khi quy hoạch Đắk Lắk đến năm 2020 mới đưa diện tích tăng lên 15.000 ha).

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

69,01

+0,52

 

Dầu Brent

USD/thùng

73,75

+0,54

 

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

49.450,00

+280,00

+0,57%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,87

+0,01

+0,28%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

206,48

-0,03

-0,01%

Dầu đốt

US cent/gallon

214,24

+0,31

+0,14%

Dầu khí

USD/tấn

656,25

-1,00

-0,15%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

67.600,00

+330,00

+0,49%

Vàng New York

USD/ounce

1.216,90

-0,80

-0,07%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.317,00

-16,00

-0,37%

Bạc New York

USD/ounce

15,34

-0,01

-0,08%

Bạc TOCOM

JPY/g

54,70

-0,50

-0,91%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

823,65

+0,81

+0,10%

Palladium giao ngay

USD/ounce

907,46

-0,91

-0,10%

Đồng New York

US cent/lb

272,85

-0,30

-0,11%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

6.133,00

-73,00

-1,18%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

2.043,00

+15,00

+0,74%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

2.569,00

-62,00

-2,36%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

19.525,00

-75,00

-0,38%

Ngô

US cent/bushel

385,75

+0,50

+0,13%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

598,75

+1,50

+0,25%

Lúa mạch

US cent/bushel

267,75

-2,25

-0,83%

Gạo thô

USD/cwt

11,29

+0,01

+0,09%

Đậu tương

US cent/bushel

899,25

+5,75

+0,64%

Khô đậu tương

USD/tấn

330,90

+1,40

+0,42%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,88

+0,08

+0,28%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

495,50

+1,50

+0,30%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.170,00

+56,00

+2,65%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

108,75

+1,00

+0,93%

Đường thô

US cent/lb

10,98

+0,13

+1,20%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

166,40

-2,50

-1,48%

Bông

US cent/lb

88,75

+0,35

+0,40%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

422,70

-7,80

-1,81%

Cao su TOCOM

JPY/kg

171,40

+0,90

+0,53%

Ethanol CME

USD/gallon

1,44

+0,00

+0,07%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg